Quyền xử lý tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng là một quyền chính
đáng mà các tổ chức tín dụng có được theo sự thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ giữa
các tổ chức tín dụng và khách hàng khi xác lập giao dịch cấp tín dụng và giao dịch
bảo đảm. Các thỏa thuận về quyền thu giữ, xử lý tài sản của các bên liên quan
là phù hợp với Hiến pháp và các quy định của pháp luật. Các quyền xử lý tài sản
đảm bảo của các tổ chức tín dụng như sau:
Phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận
Theo quy định tại khoản 1 Điều 303 Bộ luật Dân
sự 2015 các bên có thể thỏa thuận một trong những phương thức sau đây để xử lý
tài sản cầm cố, thế chấp: (i) bán đấu giá tài sản; (ii) bên nhận bảo đảm tự bán
tài sản; (iii) bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực
hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; hoặc (iv) phương thức khác.
So với quy định cũ, cách tiếp cận này góp phần
làm đa dạng hóa các phương thức xử lý tài sản bảo đảm.
Tuy nhiên, phương thức xử lý bảo đảm theo thỏa
thuận này không áp dụng cho trường hợp một bên thế chấp hay cầm cố tài sản của
mình để bảo đảm cho một bên khác vay vốn tại tổ chức tín dụng và trong trường
hợp này, các bên buộc phải quy định phương thức xử lý bảo đảm khác.
Đưa tài sản ra đấu giá
Trong thực tế, đấu giá tài sản là phương thức
bán tài sản phổ biến nhất để xử lý tài sản bảo đảm.
Để tổ chức tín dụng có thể chủ động ký hợp đồng
dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản thì trong hợp đồng bảo đảm
phải nêu rõ quyền của tổ chức tín dụng được “tự bán tài sản bảo đảm thông qua
đấu giá hoặc không qua đấu giá”, như vậy mới thỏa mãn được yêu cầu có thỏa
thuận của các bên về việc tổ chức tín dụng có quyền đưa tài sản ra đấu giá nêu
tại khoản 5 Điều 5 Luật đấu giá tài sản.
Cùng với đó, để tổ chức tín dụng được quyền chủ
động bán đấu giá tài sản thì trong hợp đồng bảo đảm cần có một điều khoản ủy
quyền theo đó bên bảo đảm (là chủ sở hữu tài sản) ủy quyền cho tổ chức tín dụng
bán đấu giá tài sản hoặc quy định rõ tổ chức tín dụng có quyền đưa tài sản ra
bán đấu giá.
Đất bị thu hồi
Cho tới thời điểm hiện tại, bất động sản vẫn
chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục tài sản bảo đảm của hầu hết các tổ chức tín
dụng. Việc xử lý loại tài sản bảo đảm này cũng đặt ra cho tổ chức tín dụng nhiều
khó khăn nhất trong thực tế.
Theo quy định tại Điều 43a Nghị định
43/2014/NĐ-CP, nếu đất mà có quyền sử dụng đất đang thế chấp bị Nhà nước thu
hồi thì hợp đồng thế chấp bằng quyền sử dụng đất sẽ mặc nhiên chấm dứt. Lúc này
tổ chức tín dụng chỉ có thể trông đợi vào số tiền Nhà nước bồi thường cho bên
thế chấp nếu hợp đồng thế chấp có quy định về việc tổ chức tín dụng được nhận
số tiền bồi thường này
Bán khoản vay được bảo đảm
Điều
174 Luật Đất đai quy định tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất hay cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần, được thế chấp quyền sử
dụng đất tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam. Trong thực
tế, quy định này có thể dẫn đến cách hiểu là bên nhận thế chấp luôn luôn phải
là tổ chức tín dụng. Tuy nhiên quy định tại điểm c khoản 2 Điều 81
Nghị định số 43/2014 NĐ-CP đã tháo gỡ vướng mắc nêu trên do khái niệm “tổ chức”
ở đây mang nghĩa rộng, không chỉ bao gồm tổ chức tín dụng mà còn cả VAMC hay
các doanh nghiệp khác không phải là tổ chức tín dụng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét