Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2018

Quy định của pháp luật về thế chấp tài sản

Theo quy định tại Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015 thì: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”



Như vậy có thể thấy bản chất của thế chấp là việc một bên “dùng tài sản thuộc sở hữu của mình” để “đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự” đối với bên kia và không đặt ra yêu cầu “chuyển giao tài sản” hay chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ tuy nhiên các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp (khoản 2 Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015), quy định này đáp ứng được khá tốt nguyện vọng và nhu cầu của chủ thể trong quan hệ thế chấp, giúp chủ thể trong quan hệ thế chấp có nhiều cách lựa chọn trong việc bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp.

Chủ thể của thế chấp tài sản


Theo quy định tại điều 317 Bộ luật Dân sự 2015 thì các bên chủ thể trong quan hệ thế chấp tài sản bao gồm bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Với việc quy định này, có thể thấy mọi chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự nói chung đều có thể trở thành chủ thể của quan hệ thế chấp, bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và nhà nước.

Để có thể tham gia vào quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thế chấp nói riêng thì các chủ thể trên cần đáp ứng được các yêu cầu, điều kiện chung về năng lực chủ thể bao gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật. Cụ thể là trong quan hệ thế chấp thì bên thế chấp phải là chủ sở hữu của tài sản thế chấp, nhằm đảm bảo giá trị hiệu lực của thế chấp cũng như loại bỏ những trường hợp bên thế chấp dùng tài sản không thuộc sở hữu của mình hoặc sử dụng tài sản đang có sự tranh chấp về chủ sở hữu để dùng làm tài sản thế chấp sẽ khiến cho sự “an toàn” về quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận thế chấp bị hạn chế, dễ xảy ra rủi ro, tranh chấp.


Hình thức của thế chấp tài sản


Hình thức của một số giao dịch là điều kiện bắt buộc để giao dịch dân sự đó có hiệu lực pháp luật, ở quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 thì việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản theo quy định tại Điều 343 Bộ luật Dân sự 2005: Văn bản thế chấp có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.

Việc quy định chặt chẽ về hình thức của thế chấp giúp đảm bảo hiệu lực của văn bản thế chấp đồng thời còn có giá trị chứng minh tính chính xác khi có tranh chấp cần giải quyết tại tòa án. Bên cạnh đó, việc đăng kí thế chấp giúp công khai các thông tin về thế chấp để các chủ thể khác có thể biết được tình trạng tài sản đang là đối tượng của thế chấp, giúp xác định một cách cụ thể các quyền của bên nhận thế chấp so với các chủ thể khác như: quyền truy đòi tài sản khi có sự chuyển giao quyền sở hữu cho người thứ 3 không được sự đồng ý của bên nhận thế chấp; quyền ưu tiên thanh toán tài sản thế chấp;…..


Tuy nhiên tại quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 mới có hiệu lực thì không có một điều luật nào quy định về Hình thức của thế chấp tài sản, điều đó có nghĩa hình thức của thế chấp tài sản không phải là một điều kiện có hiệu lực của giao dịch thế chấp, các bên có thể thỏa thuận thống nhất  việc lựa chọn hình thức của giao dịch thế chấp như: văn bản, lời nói, hành vi,… hoặc các hình thức khác đáp ứng đúng nhu cầu của các bên. Việc quy định này cũng giúp các bên có nhiều sự lựa chọn hơn trong các giao dịch thế chấp của mình về hình thức phù hợp, linh hoạt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét