Thứ Hai, 12 tháng 3, 2018

Vai trò của Luật sư trong giai đoạn hiện nay

Nghề luật sư được xem là nghề tiêu biểu và thể hiện được những đặc trưng tiêu biểu của nghề luật. Nghề luật sư không giống như những nghề nghiệp chuyên môn khác vì ngoài những kiến thức và kĩ năng thì những người luật sư còn cần có đạo đức nghề nghiệp, có cái “tâm” với nghề.

Theo quy định tại Điều 2 Luật Luật sư thì “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định tại Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”



Chức năng xã hội của luật sư


Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, công bằng, văn minh.

Tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề luật sư


Điều 10 Luật Luật sư có quy định tiêu chuẩn của luật sư như sau: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe đảm bảo hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư

Người có đủ tiêu chuẩn luật sư muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.

Đánh giá chung về vai trò của luật sư trong giai đoạn hiện nay


Cùng với sự phát triển của xã hội, luật sư đang từng bước khẳng định vị trí và vai trò của xã hội. Đội ngũ luật sư đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, vì một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tuy nhiên, bên cạnh những điều đã đạt được, vai trò tự quản của các Đoàn luật sư trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư còn bộc lộ nhiều hạn chế. Công tác quản lý nhà nước về luật sư còn bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời đại mới. Chính vì điều này nên vai trò của luật sư vẫn chưa đạt được mức cao nhất.



Và giải pháp từ các phía để phát huy vai trò của luật sư trong đời sống xã hội chính là:

Thứ nhất, các thể chế và chính sách của Nhà nước phải rõ ràng, đồng bộ và phù hợp với các quy luật của cuộc sống. Bởi, Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý, tạo điều kiện và khuyến khích luật sư trong hành nghề.

Thứ hai, các định chế đối với giới luật sư cần mở rộng để họ tham gia nhiều hơn vào đời sống pháp lý của đất nước. Điều này sẽ tạo cơ hội để phát triển đội ngũ luật sư nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng và phát huy đầy đủ vai trò của họ trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Thứ ba, giới luật sư phải tự nâng cao năng lực - đạo đức nghề nghiệp, đồng thời những người yêu thích nghề này cần nhớ rằng học luật và thực tế khi làm luật sư là hai việc khác nhau. Hiểu biết pháp luật, tích lũy kinh nghiệm, có bản lĩnh và cái tâm với nghề là những điều cần thiết.

Vị thế nghề nghiệp cho luật sư được quyền phản biện, nhưng sử dụng cái quyền ấy như thế nào lại là cách thức của mỗi luật sư khi hành nghề. Quyền phản biện ấy có giới hạn, bởi sự bày tỏ pháp lý hay tranh tụng, về bản chất đều hướng đến tiếp cận sự thật và công bằng. Nếu đặt quyền phản biện ấy ra ngoài ranh giới của lòng chân thành, tách rời khỏi đất nước và con người nơi mình sinh ra và tồn tại thì ý nghĩa cao quý của nghề luật sư không còn nữa. Xét cho cùng, quan điểm của luật sư đưa ra chưa hẳn thấu đáo, nhưng nhất quyết không nên song hành với những thủ đoạn triệt tiêu sự thật và tổn hại đến những hy vọng vốn dĩ quá mong manh của một đời người. Vai trò của luật sư trong giai đoạn hiện nay thật sự quan trọng như vậy.

Thực trạng quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp của nước ta hiện nay

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay đã đơn giản và dễ thực hiện hơn so với Luật thuế lợi tức (do mức thuế suất, thủ tục kê khai đã được quy định đơn giản hơn... tiết kiệm được thời gian chi phí, nhân lực cho cả người thu và người nộp thuế). Thực hiện Luật quản lý thuế, công tác quản lý đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế thu nhập hiện nay đã có sự tiến bộ, thay đổi khi phát triển ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức quản lý thuế điện tử nhằm giảm thời gian, thủ tục cho người nộp thuế. 



Với ứng dụng hệ thống Kiosk (công nghệ màn hình cảm ứng giúp người sử dụng tra cứu thông tin đơn giản, dễ dàng bằng cách dùng tay ấn vào các biểu tượng trên màn hình) thông tin hỗ trợ tra cứu nghĩa vụ kê khai, nộp thuế, số thuế còn phải nộp của người nộp thuế có tính ứng dụng cao, hỗ trợ người nộp thuế khi cần tra cứu các thông tin liên quan đến việc thực thiện nghĩa vụ thuế của mình. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã quy định thống nhất áp dụng mã số thuế giữa cơ quan Hải quan và cơ quan thuế, tiếp đến thống nhất mã số đăng ký doanh nghiệp và đăng ký thuế thành một mã số doanh nghiệp, sau cùng là gộp cả ba thủ tục đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thuế, khắc dấu doanh nghiệp thành thủ tục đăng ký doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế một cửa liên thông. Hiệu quả nổi bật của việc cải cách về thủ tục hành chính này là thời gian thực hiện ba thủ tục đã rút ngắn xuống 9 ngày làm việc, và bắt đầu từ năm 2015, thời gian này đã được rút ngắn lại còn 7 ngày làm việc.



Ngoài ra, cơ quan thuế thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở của cơ quan thuế và tại trụ sở người nộp thuế, thanh tra theo kế hoạch và thanh tra bất thường, tập trung được nguồn nhân lực để thực hiện công tác thanh tra đúng đối tượng. Quy định này đã đẩy mạnh công tác kiểm tra hồ sơ kê khai thuế của doanh nghiệp, đồng thời, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về thuế và nâng cao tính tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp.


Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cơ chế thực thi pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp còn bộc lộ nhiều hạn chế, bấp cập. Nhiều lỗ hổng còn tồn tại trong khâu quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đã không đảm bảo được việc thu nộp thuế đạt hiệu quả cao, dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp trốn thuế ngày càng gia tăng. Điều này đặt ra yêu cầu tới các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý vấn đề thu nộp thuế hiện nay.

Tác động tích cực của Thuế thu nhập doanh nghiệp tới nguồn thu ngân sách nhà nước

Việc ra đời của thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước ta là kết quả của việc cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới. Cùng với các loại thuế khác, thuế đánh lên thu nhập của doanh nghiệp đã được ban hành. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 thay cho thuế  lợi tức trước đó ra đời quy định mức thuế suất là 32%; mức thuế suất tiếp tục được giảm xuống 28% năm 2003; 25% năm 2008; 22% năm 2013 và hiện nay áp dụng mức thuế suất 20%.


Theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2013, mức thuế suất dành cho doanh nghiệp sẽ bao gồm nhiều mức thuế khác nhau tương ứng với từng loại mô hình doanh nghiệp khác nhau. Cụ thể như: Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông hiện nay là 20% và đây cũng là mức thuế suất dành cho doanh nghiệp có doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng. Đối với những doanh nghiệp hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu, khí và tài nguyên quý hiếm khác tại Việt Nam sẽ chịu mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là từ 32% đến 50% phù hợp với từng dự án, từng cơ sở kinh doanh. Ngoài ra còn có các mức thuế suất ưu đãi là 10% và 17% đối với các mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ (Điều 13).

Xuất phát từ quy định của pháp luật, ta có thể đưa ra một số ảnh hưởng tích cực của Thuế thu nhập doanh nghiệp đến nguồn thu cho Ngân sách nhà nước như sau:

Thứ nhất, việc giảm mức thuế suất theo quy định của pháp luật hiện nay hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung trong cải cách chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp trên thế giới hiện nay. Đối chiếu với mức thuế suất qua từng thời kỳ, có thể thấy mức thuế suất được điều chỉnh theo xu hướng giảm dần, từ 32% giảm xuống còn 20%. Dựa theo số liệu từ 2009 đến 2014, một số nước Châu Á đã giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp để thu hút đầu tư như là: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở Malaysia là 25%; Thái Lan cũng giảm thuế suất từ 30% xuống 20% năm 2014. Năm 2008, Trung Quốc cũng đã thực hiện điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp trong nước từ 33% xuống 25% và xóa bỏ toàn bộ các quy định phân biệt đối xử về nghĩa vụ thuế giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Vào thời điểm đó, ở châu Á, Singapore và Đài Loan là hai nền kinh tế có mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp thuộc vào nhóm thấp nhất là 17%. Như vậy, có thể thấy việc điều chỉnh mức thuế suất như hiện nay là phù hợp với tình hình chung của khu vực; góp phần tăng khả năng cạnh tranh của nước ta trong khu vực nhằm thu hút vốn đầu tư và đảm bảo mặt bằng chung với các nước.


Thứ hai, việc giảm mức thuế suất không những không làm giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn kích thích tăng trưởng kinh tế, làm tăng ngân sách trong giai đoạn sau. Thu nhập doanh nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước của Việt Nam. Việc giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp có thể trước mắt làm giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhưng bù lại nó sẽ kích thích kinh tế của các doanh nghiệp phát triển nhanh, do việc giảm thuế suất sẽ khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư nhiều hơn vào các doanh nghiệp trong nước, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, không những vậy, nó còn tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng vì mức thuế suất của Việt Nam phù hợp với xu hướng chung về chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của các quốc gia trong khu vực, từ đó sẽ giúp các doanh nghiệp của chúng ta có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Kinh tế doanh nghiệp phát triển ổn định đương nhiên sẽ tạo ra nguồn thu lớn hơn, dẫn đến nguồn thu cho ngân sách nhà nước về sau cũng sẽ tăng cao, thậm chí còn duy trì được ở mức ổn định.

Thứ ba, cùng với việc giảm thuế suất thì những quy định về mức thuế suất dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; những ưu đãi dành cho nhóm doanh nghiệp khác  cũng tác động tích cực đến nguồn thu Ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn là mục tiêu trọng tâm của các chính sách phát triển kinh tế ở các quốc gia đang phát triển, trong đó chính sách hỗ trợ về thuế cũng là công cụ thường được các nước sử dụng. Tại Việt Nam việc áp dụng chính sách thuế suất thấp hơn so với mức thuế suất phổ thông sẽ tạo điều kiện cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng tích lũy để tái đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển thành các doanh nghiệp lớn.


Như vậy, từ những phân tích ở trên có thể thấy, những quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp, cụ thể là mức hạ thuế suất hiện nay cũng như các chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đã tác động tích cực đến nguồn thu Nhà nước. Về lý thuyết, nguồn thu có thể bị giảm trong ngắn hạn; tuy nhiên trên thực tế việc hỗ trợ doanh nghiệp bằng những chính sách, ưu đãi kết hợp khâu quản lý thuế chặt chẽ đã kích thích doanh nghiệp phát triển, tái đầu tư; thu hút vốn đầu tư nước ngoài giúp nguồn thu Nhà nước tăng lên và ổn định hơn, có thể tái cơ cấu lại nguồn thu trong nước để tăng tỷ trọng thu nội địa giúp cho tăng trưởng kinh tế bền vững.

Chế độ ưu đãi, miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay

Ở Việt Nam hiện nay, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định về các chế độ ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ Điều 13 đến Điều 18. Trong đó, các quy định ưa đãi về thuế suất thường có mức là 10% hoặc 20% tùy từng trường hợp:



Thứ nhất, áp dụng thuế suất 10% trong thời gian 15 năm đối với:

Thu nhập của doanh nghiệp phát triển công nghệ cao hoặc doanh nghiệp đầu tư dự án trong lĩnh vực công nghệ cao; thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao;

Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới, bao gồm: nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật công nghệ cao; ươm tạo công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao;…

Thu nhập của doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định của Luật công nghệ cao;…(khoản 1 Điều 13)

Thứ hai, áp dụng thuế suất 10% đối với:

Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường;

Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư – kinh doanh nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho thuê mua đối với các đối tượng quy định tại Điều 53 Luật Nhà ở;

Thu nhập của cơ quan báo chí từ hoạt động báo in; thu nhập của cơ quan xuất bản từ hoạt động xuất bản theo quy định của Luật Xuất bản;

Thu nhập của doanh nghiệp từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng thủy sản ở địa bàn khó khăn…

Thu nhập của hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp; (khoản 2 Điều 13)



Thứ ba là áp dụng thuế suất 20% trong thời gian 10 năm đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; hoặc trong thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực: sản xuất thép cao cấp, sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng, sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, và phát triển ngành nghề truyền thống. Tuy nhiên từ ngày 01/01/2016, thu nhập của doanh nghiệp thuộc diện nêu trên được áp dụng thuế suất 17%. (khoản 3 Điều 13)

Trong hầu hết các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế thì thời gian được miễn thuế tối đa không quá 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 9 năm tiếp theo đối với doanh nghiệp công nghệ cao, và thu nhập của doanh nghiệp từ dự án đầu tư mới là tối đa không quá 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đã không quá 4 năm tiếp theo. Thời gian miễn thuế, giảm thuế được tính từ năm dự án đầu tư hoàn thành đưa vào sản xuất, kinh doanh. Tất nhiên ưu đãi thuế quy định tại khoản này không áp dụng đối với các trường hợp đầu tư mở rộng do sáp nhập, mua lại doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư đang hoạt động (Điều 14)

Trong tình hình kinh tế phát triển bất thường, việc làm ăn thua lỗ rất dễ xảy ra, ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp cũng như tiền thuế của nhà nước. Vì thế, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về chuyển lỗ: “Doanh nghiệp có lỗ được chuyển số lỗ sang năm sau; số lỗ này được trừ vào thu nhập tính thuế. Thời gian được chuyển lỗ không quá 5 năm, kể từ năm tiếp theo năm phát sinh lỗ.”

Các trường hợp giảm thuế khác:

Doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, vận tải sử dụng nhiều lao động nữ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp bằng số chi thêm cho lao động nữ.

Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người dân tộc thiểu số được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp bằng số chi thêm cho lao dộng là người dân tộc thiểu số.

Doanh nghiệp thực hiện chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên chuyển giao cho tổ chức, cá nhân ở địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên phần thu nhập từ chuyển giao công nghệ.


Doanh nghiệp trích lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam được trích tối đa 10% thu nhập tính thuế hàng năm.

Đánh giá về thẩm quyền dân sự của tòa án theo loại việc về tranh chấp lao động

Thứ nhất, tranh chấp lao động xảy ra trong thực tế là nhiều, nhưng số vụ án đưa đến tòa án thì rất hạn chế. So với các vụ án về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại thì tranh chấp lao động đưa đến tòa án chưa nhiều. Nguyên nhân chủ yếu do chính thủ tục hòa giải đã hạn chế quyền khởi kiện vụ án của các bên tranh chấp. Bên cạnh đó, còn có sự hạn chế về sự hiểu biết pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động của người lao động; các tổ chức tư vấn cho người lao động chưa phát huy được ảnh hưởng. Chính vì vậy mà nhiều vụ án đưa đến tòa án phải trả lại đơn khởi kiện vì đã hết thời hiệu khởi kiện, hoặc vì chưa qua hòa giải tại cơ sở.


Thứ haivề loại tranh chấp: Hiện nay xuất hiện nhiều tranh chấp về tiền lương, tiền thưởng, phân phối thu nhập, bảo hiểm xã hội, bồi thường thiệt hại,... thường xảy ra chủ yếu ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và ở các địa bàn mà các ngành công nghiệp, dịch vụ phát triển như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Cần Thơ, Hải Dương,... nhưng quy định về vấn đề này chưa cụ thể, chủ yếu vẫn là tranh chấp lao động liên quan đến vấn đề sa thải, chấm dứt hợp đồng.

Thứ ba, về chất lượng xét xử các vụ án lao động tại tòa án: Nhìn chung được bảo đảm được quyền và lợi ích của các bên. Tuy nhiên, còn một số mặt hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Tỉ lệ các vụ án của tòa án cấp sơ thẩm phải sửa tương đối cao, một số vụ án phải kéo dài; quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không được khôi phục kịp thời. Những hạn chế đó đã gây những tác động tiêu cực đến quan hệ lao động. Số lượng các loại vụ án và đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm mà ngành tòa án nhân dân phải thụ lí giải quyết ngày càng tăng, tính chất cũng phức tạp.


Thứ , cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của tòa án vẫn còn nhiều khó khăn như chế độ lương và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức tòa án; nguồn tuyển dụng cán bộ ở một số địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa rất khó khăn; cá biệt một số cơ quan, chính quyền địa phương chưa được thực sự quan tâm phối hợp với tòa án. Ngoài ra, trách nhiệm công tác, năng lực quản lí, điều hành ở một số Tòa án nhân dân địa phương còn hạn chế. Vẫn còn một số thẩm phán, cán bộ tòa án hạn chế về năng lực, trình độ; tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỉ luật nên hiệu quả công tác quản lí còn thấp.

Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2018

Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong tố tụng

Trong xã hội, đặc biệt ở đất nước đang phát triển với nhiều những biến động như hiện nay thì vai trò của nghề luật sư là rất lớn trong xã hội. 


Hoạt động tố tụng của luật sư được hiểu là tổng hợp các hoạt động và kỹ năng nghề nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau diễn ra tại phiên tòa dưới sự điều khiển của chủ tọa nhằm mục đích thuyết phục Hội đồng xét xử chấp thuận quan điểm của mình. Và trên cơ sở đó, vai trò của luật sư trong hoạt động ttụng được hiểu là cách thức tác động và ý nghĩa xã hội của luật sư trong quá trình thực hiện hoạt động t tụng nhằm đảm bảo các mục đích bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, bảo vệ pháp chế, pháp luật, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và giám sát hoạt động tư pháp.

Luật sư tham gia trợ giúp pháp lý với tư cách là người bào chữa cho các bị can, bị cáo người bị tạm giữ trong các vụ án hình sự hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong các vụ án dân sự, hành chính, lao động, ly hôn, người bị hại trong các vụ án hình sự…

Ngoài ra Luật sư cũng trợ giúp pháp lý cho người chưa thành niên; người có nhược điểm về thể chất tâm thần... theo sự phân công của Trung tâm trợ giúp pháp lý, Đoàn luật sư và Tổ chức hành nghề luật sư trên cơ sở yêu cầu trợ giúp pháp lý của người thuộc diện trợ giúp pháp lý hoặc của Cơ quan tiến hành tố tụng.


Trong hầu hết các trường hợp, công việc của Luật sư khi đứng trước tòa là đưa ra những bằng chứng và luận điểm đối chứng lại với kết luận của bên công tố, dựa vào quyền được bảo vệ hợp pháp của người bị buộc tội. Luật sư biện hộ, nhất là trong các vụ án nghiêm trọng, phải dành nhiều thời gian và công sức nghiên cứu, thu thập bằng chứng có lợi cho thân chủ, và họ có thể phải theo đuổi trong nhiều năm. Vai trò biện hộ, đòi hỏi khả năng phân tích, phán đoán, suy xét sự việc thuần túy trên quan điểm khách quan mà không lồng vào công việc tình cảm yêu ghét cá nhân. Dù mỗi nước có một thể chế chính trị và cách xét xử khác nhau, nhân loại có một điểm chung là khi buộc phải ra tòa thì tốt hơn cả là thuê một ai đó được đào tạo về pháp luật đứng ra đại diện quyền lợi cho mình. Và vai trò của người luật sư lúc này rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.

Cuộc sống thường ngày ẩn chứa đầy những mâu thuẫn giữa công dân với nhau hoặc giữa công dân với các cơ quan, tổ chức…Bởi vậy, dù mỗi nước có một thể chế chính trị và cách xét xử khác nhau nhưng đều có một điểm chung là khi buộc phải ra tòa thì tốt hơn cả là thuê một ai đó được đào tạo về pháp luật đứng ra đại diện quyền lợi cho mình. Và vai trò của người luật sư lúc này rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.


Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thế chấp

Kể từ thời điểm thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể cũng phát sinh, cụ thể đó là các quy định từ Điều 320 đến Điều 323 Bộ luật Dân sự 2015.



Đối với bên thế chấp


Nghĩa vụ cơ bản của bên thế chấp


Bảo đảm giá trị của tài sản thế chấp: là nghĩa vụ gắn với bản chất của giao dịch thế chấp đó là không yêu cầu chuyển giao tài sản thế chấp từ bên thế chấp sang bên nhận thế chấp do đó, tài sản vẫn thuộc sự chiếm hữu, định đoạt của bên thế chấp vì vậy nghĩa vụ bảo bảo giữ gìn giá trị của tài sản cần được đặt ra để đảm bảo cho quyền, lợi ích hợp pháp của bên nhận thế chấp

Thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp

Không được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp trừ trường hợp pháp luật quy định khác để đảm bảo cho việc duy trì giá trị bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của thế chấp

Quyền cơ bản của bên thế chấp


Khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp: việc này không gây ảnh hưởng tới tài sản thế chấp và tài sản này vẫn được bảo đảm giá trị thực hiện nghĩa vụ dân sự hơn nữa việc đầu tư làm tăng giá trị của tài sản thế chấp còn giúp cho tài sản thế chấp vẫn tồn tại và phát triển trong đời sống kinh tế, dân sự.

Thực hiện các giao dịch chuyển quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng tài sản thế chấp trong một số trường hợp do pháp luật quy định: trong một số trường hợp nhất định, để đảm bảo cho giá trị của tài sản thế chấp hoặc theo ý chí của bên nhận thế chấp, bên thế chấp có thể thực hiện các giao dịch chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản thế chấp.

Nhận lại tài sản thế chấp: trong trường hợp tài sản thế chấp do bên thứ ba giữ và nghĩa vụ chính đã chấm dứt hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác thì bên thế chấp có quyền nhận lại tài sản thế chấp do bên thứ ba nắm giữ.



Đối với bên nhận thế chấp


Nghĩa vụ cơ bản của bên nhận thế chấp


Hoàn trả giấy tờ về tài sản thế chấp khi chấm dứt thế chấp

Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đăng kí giao dịch bảo đảm xóa đăng kí thế chấp trong các trường hợp luật định

Quyền cơ bản của bên nhận thế chấp


Kiểm tra và đưa ra những yêu cầu liên quan đến việc đảm bảo giá trị của tài sản thế chấp

Yêu cầu giao tài sản thế chấp để xử lí khi nghĩa vụ chính bị vi phạm

Giám sát, kiểm tra quá trình hình thành tài sản thế chấp

Yêu cầu xử lí tài sản thế chấp và được ưu tiên thanh toán tài sản thế chấp


Bên cạnh đó pháp luật cũng quy định rất cụ thể các quyền và nghĩa vụ của người thứ 3 giữ tài sản thế chấp tại Điều 324 Bộ luật Dân sự 2015

Thực tế áp dụng nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia tại Việt Nam

Tại Việt Nam, có một số khác biệt trong nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia, cụ thể như sau:


Với nguyên tắc đối xử quốc gia: Hiện tại các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam, cũng như những dịch vụ do họ cung cấp nhìn chung chưa được hưởng chế độ đối xử quốc gia mà còn phải tuân theo những quy định riêng. Các quy định riêng này thường liên quan đến các vấn đề như giá cả (giá cao hơn so với các nhà cung cấp dịch vụ trong nước), điều kiện đầu tư (điều kiện về vốn pháp định, một số các tiêu chuẩn nghiệp vụ, kỹ thuật), sự hiện diện của các thể nhân nước ngoài trong các lĩnh vực tư vấn luật, tư vấn xây dựng, kiểm toán…

Với nguyên tắc mở cửa thị trường: Nhìn chung, hiện nay ở Việt Nam chưa thực sự mở cửa trong một số lĩnh vực thương mại dịch vụ. Có những dịch vụ chưa có quy định cho người nước ngoài được kinh doanh như viễn thông, hàng không....

Ví dụ: Dịch vụ bưu chính viễn thông đang là lĩnh vực độc quyền của Nhà nước. Sự độc quyền này được thực hiện thông qua các doanh nghiệp Nhà nước, thông qua những hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, nhà đầu tư nước ngoài được cung cấp dịch vụ viễn thông Việt Nam thông qua văn phòng đại diện và hợp đồng hợp tác kinh doanh (hạn chế về hiện diện thương mại), doanh nghiệp nước ngoài không được cung cấp dịch vụ qua biên giới Việt Nam, trừ những doanh nghiệp đã ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (hạn chế về cung cấp dịch vụ qua biên giới), thể nhân nước ngoài chưa được phép vào Việt Nam để kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông theo quy định tại Nghị định số 109/1997/NĐ-CP về bưu chính và viễn thông, Thông tư số 04/1998/TT-TCBC hướng dẫn thi hành nghị định số 109/1997/NĐ-CP...   



Về các hình thức cung cấp dịch vụ, hiện tại pháp luật Việt Nam mới quy định cụ thể về hai hình thức, đó là hiện diện thương mại và hiện diện thể nhân. Điều này đã hạn chế việc tạo điều kiện mở cửa thị trường cho sự phát triển hình thức cung cấp dịch vụ qua biên giới và tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài.

Ví dụ, ngoài các cam kết đối với những ngành cụ thể, Việt Nam còn đưa ra một số cam kết được gọi là “cam kết nền chung” áp dụng với mọi dịch vụ được cung cấp thông qua hiện diện thương mại của Mỹ tại Việt Nam. Đối với hiện diện thương mại, các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ phải xin giấy phép để thiết lập sự hiện diện thương mại tại Việt Nam. Việt Nam đang trong quá trình dự thảo luật, các đạo luật và các quy định liên quan đến chi nhánh của các công ty nước ngoài. Vì vậy, trừ khi được quy định khác trong lộ trình của mình, Việt Nam không chấp thuận dành tiếp cận thị trường cho các chi nhánh của công ty Hoa Kỳ…


Việt Nam cũng chưa thực sự mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực thương mại dịch vụ, nhiều phân ngành dịch vụ chưa có các quy định pháp luật cụ thể như dịch vụ săn bắn, dịch vụ lâm nghiệp, dịch vụ nhiếp ảnh, dịch vụ hội nghị... Chính vì chưa có các quy định cụ thể nên việc cấp đăng ký kinh doanh cho các nhà kinh doanh dịch vụ này là rất khó khăn. Một số dịch vụ còn sử dụng những quy định, biện pháp mang tính hạn chế về số lượng, trợ giá các dịch vụ, số lượng người cung cấp dịch vụ, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài, hình thức công ty của người nước ngoài...

Nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia trong lĩnh vực thương mại dịch vụ theo quy định của WTO

Nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia trong lĩnh vực thương mại dịch vụ được quy định tại điều XVI và XVII Phần III: Cam kết cụ thể của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS).



Hầu như tất cả các thị trường xuất khẩu chính, các lĩnh vực dịch vụ và sản phẩm đều được đề cập trong GATS. Hiệp định GATS nói chung cùng nguyên tắc mở của thị trường và đối xử quốc gia nói riêng đều nhằm hướng đến mục tiêu tạo lập một hệ thống thương mại tự do hơn, cạnh tranh hơn và có lợi hơn cho các nước đang phát triển. Bằng việc cho phép các nhà xuất khẩu có thể thông báo về các quyết định trên cơ sở những điều kiện thâm nhập thị trường, GATS khuyến khích phát triển chất lượng dịch vụ, cạnh tranh giá cả và cải tiến việc chuyển giao dịch vụ.

Nguyên tắc mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia là một cam kết đã được đàm phán theo hiệp định GATS, trong những lĩnh vực mà một quốc gia thành viên đã thực hiện cam kết đãi ngộ quốc gia, quốc gia đó không được thực hiện các biện pháp phân biệt đối xử có lợi cho những dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ ở trong nước. Những điều kiện mở cửa thị trường được đặt ra trong các cam kết cũng đã được đàm phán trong những lĩnh vực cụ thể.



Nguyên tắc cam kết mở cửa thị trường và đối xử quốc gia cũng giúp các nước được tiếp cận thị trường dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ không bị phân biệt đối xử. Đồng thời tạo cơ hội cho các nước được hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cũng như thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của của nước thành viên đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn. Nhờ có hai nguyên tắc này, các nước đang phát triển được tạo điều kiện linh hoạt trong việc mở cửa thị trường cho một số lượng nhỏ hơn các lĩnh vực dịch vụ, tự do hóa một số lượng ít hơn các loại hình giao dịch kinh doanh và mở cửa thị trường theo các giai đoạn phù hợp với tình hình phát triển của họ.


Có thể thấy rằng, nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia đã bổ sung cho nhau, góp phần tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy lĩnh vực thương mại dịch vụ phát triển hơn. Tuy nhiên việc áp dụng nguyên tắc cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực thương mại dịch vụ trên thực tế vẫn gặp phải những khó khăn nhất định.

Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về giao dịch thế chấp tài sản

Biện pháp thế chấp có mối quan hệ mang tính chất phụ thuộc vào nghĩa vụ mà nó bảo đảm. Về nguyên tắc, không thể xác lập thế chấp trước khi phát sinh nghĩa vụ được bảo đảm và thế chấp sẽ không còn hiệu lực khi chấm dứt nghĩa vụ được bảo đảm. Do đó, việc thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ bảo đảm sẽ kéo theo việc chấm dứt giao dịch thế chấp và việc nghĩa vụ được bảo đảm vô hiệu sẽ kéo theo việc thế chấp vô hiệu.


Hơn nữa thế chấp là biện pháp bảo đảm không kéo theo việc chuyển giao tài sản bảo đảm cho bên nhận thế chấp. Do đó, trong quá trình thế chấp tài sản, chừng nào chưa xử lý tài sản thế chấp thì tài sản này vẫn do bên thế chấp quản lý và sử dụng trừ trường hợp tài sản do bên thứ ba giữ theo ủy quyền của bên thế chấp hay theo quy định của các hợp đồng, giao dịch giữa bên thứ ba và bên thế chấp. Tuy nhiên, bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bên thuê, bên mượn tài sản thế chấp chấm dứt việc sử dụng tài sản thế chấp nếu việc sử dụng làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản đó.



Bên cạnh đó tài sản thế chấp đều có đăng ký quyền sở hữu nên người nhận thế chấp không thể xác lập quyền sở hữu đối với tài sản này. Người nhận thế chấp phải yêu cầu bán đấu giá tài sản để đảm bảo nghĩa vụ dân sự được thực hiện. Nhưng trên thực tế thì người nhận thế chấp phải trải qua giai đoạn khởi kiện và thi hành bản án mới có thể bán được tài sản thế chấp. Thực trạng này làm cho người nhận thế chấp tốn nhiều thời gian và chi phí, bởi lẽ các cơ quan bán đấu giá tài sản không dám nhận bán đấu giá các tài sản chưa có bản án và quyết định bán đấu giá của cơ quan thi hành án.

Trong trường hợp mà người thế chấp không có khả năng để thực hiện nghĩa vụ để nhận lại tài sản thế chấp thì sẽ gây nhiều khó khăn cho bên nhận thế chấp. Trong thực tế đã có không ít những trường hợp mà bên thế chấp không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dẫn đến bên nhận thế chấp phải giải quyết tài sản đó theo quy định của pháp luật.


Tuy nhiên hiện nay khi các quy định mới của Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực thì việc áp dụng các quy định này trong giao dịch thế chấp tài sản trở nên phù hợp hơn, đáp ứng và phòng tránh được rủi ro của các chủ thể trong giao dịch thế chấp khi xác lập biện pháp bảo đảm này cho nghĩa vụ chính được đảm bảo.

Quy định của pháp luật về thế chấp tài sản

Theo quy định tại Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015 thì: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”



Như vậy có thể thấy bản chất của thế chấp là việc một bên “dùng tài sản thuộc sở hữu của mình” để “đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự” đối với bên kia và không đặt ra yêu cầu “chuyển giao tài sản” hay chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ tuy nhiên các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp (khoản 2 Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015), quy định này đáp ứng được khá tốt nguyện vọng và nhu cầu của chủ thể trong quan hệ thế chấp, giúp chủ thể trong quan hệ thế chấp có nhiều cách lựa chọn trong việc bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp.

Chủ thể của thế chấp tài sản


Theo quy định tại điều 317 Bộ luật Dân sự 2015 thì các bên chủ thể trong quan hệ thế chấp tài sản bao gồm bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Với việc quy định này, có thể thấy mọi chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự nói chung đều có thể trở thành chủ thể của quan hệ thế chấp, bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và nhà nước.

Để có thể tham gia vào quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thế chấp nói riêng thì các chủ thể trên cần đáp ứng được các yêu cầu, điều kiện chung về năng lực chủ thể bao gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật. Cụ thể là trong quan hệ thế chấp thì bên thế chấp phải là chủ sở hữu của tài sản thế chấp, nhằm đảm bảo giá trị hiệu lực của thế chấp cũng như loại bỏ những trường hợp bên thế chấp dùng tài sản không thuộc sở hữu của mình hoặc sử dụng tài sản đang có sự tranh chấp về chủ sở hữu để dùng làm tài sản thế chấp sẽ khiến cho sự “an toàn” về quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận thế chấp bị hạn chế, dễ xảy ra rủi ro, tranh chấp.


Hình thức của thế chấp tài sản


Hình thức của một số giao dịch là điều kiện bắt buộc để giao dịch dân sự đó có hiệu lực pháp luật, ở quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 thì việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản theo quy định tại Điều 343 Bộ luật Dân sự 2005: Văn bản thế chấp có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.

Việc quy định chặt chẽ về hình thức của thế chấp giúp đảm bảo hiệu lực của văn bản thế chấp đồng thời còn có giá trị chứng minh tính chính xác khi có tranh chấp cần giải quyết tại tòa án. Bên cạnh đó, việc đăng kí thế chấp giúp công khai các thông tin về thế chấp để các chủ thể khác có thể biết được tình trạng tài sản đang là đối tượng của thế chấp, giúp xác định một cách cụ thể các quyền của bên nhận thế chấp so với các chủ thể khác như: quyền truy đòi tài sản khi có sự chuyển giao quyền sở hữu cho người thứ 3 không được sự đồng ý của bên nhận thế chấp; quyền ưu tiên thanh toán tài sản thế chấp;…..


Tuy nhiên tại quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 mới có hiệu lực thì không có một điều luật nào quy định về Hình thức của thế chấp tài sản, điều đó có nghĩa hình thức của thế chấp tài sản không phải là một điều kiện có hiệu lực của giao dịch thế chấp, các bên có thể thỏa thuận thống nhất  việc lựa chọn hình thức của giao dịch thế chấp như: văn bản, lời nói, hành vi,… hoặc các hình thức khác đáp ứng đúng nhu cầu của các bên. Việc quy định này cũng giúp các bên có nhiều sự lựa chọn hơn trong các giao dịch thế chấp của mình về hình thức phù hợp, linh hoạt.